ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG”
THƠ LĐM
Bình thơ:
Châu Thạch
Nhiều người hiểu
chữ “Lãng Mạn” có nghĩa đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay
bổng,
Phản ảnh một ước mơ
của khát vọng vươn lên trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “
Tiệc rượu giữa đồng’ cúa lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn
ngay từ cái đầu đề. Thật vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu
không là ngông, là kỳ quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời.
Đọc toàn bộ bài thơ ta thấy nó không ngông, không kỳ quặc mà phát hiện ở đó bày
tỏ một nhân cách sống thanh bần và cao thượng:
TIỆC
RƯỢU GIỮA ĐỒNG!
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc
hao gầy
Hư không có biết mai còn
gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa
ruộng này
Kênh- mương- bờ - thửa, mâm
bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng
vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như
tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp
tận vườn đào*
Hắt một chén nhâm nhi cùng
gió lộng
Không cao lương nên chẳng
móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền
tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu…
cũng kiệm lời
Chẳng khoa trương chuyện
thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang
bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi
văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn
thánh còn ngân
Hắt chén nữa ruộng mương là
chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất
cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông
hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ
đê này
Lý lịch trơn nhờ bùn đất
tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi
lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ
nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến
cuộc đời này…!
LĐM
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa
Vế đầu của bài thơ giới thiệu một tiệc rượu mở ra trên đồng ruộng trong
khung cảnh buổi chiều bóng ngã vể tây. Lý do để mở tiệc là vì tác giả sợ đời là
hư không nên biết đâu không còn cơ hội gặp nhau . Đọc vế thơ nầy ta biết ngay
tác giả dùng bữa tiệc trên đồng ruộng hoặc hư cấu một bữa tiệc như thế để bày
tỏ phong cách sống của mình trong những tháng năm vào tuổi Hạc:
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng
này
“ Chiều gần xuống kéo lưới quăng về tây” là hình ảnh sống động chỉ sự
sắp ra đi ở cuối đời người. Buổi chiều của thời gian chỉ kéo ánh sáng quăng về
tây nhưng buổi chiều của đời người thì kéo tất cả vào cái lưới trời lồng lộng
quăng vào trong bóng tối. Vậy chữ “tây” ở đây là bên kia thế giới của sự
sống hiện tại.
“ Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng nầy”: Vì “chiều” thể hiện cho cuộc
đời còn lại, “tây’ thể hiện cho thế giới chết bên kia nên
“ruộng” ở đây thể hiện cho đất sống hiện tại và “rượu” là niềm vui cần hưởng
thụ.
Bốn câu thơ mở đầu đã thể hiện ngay một cách sống vô vi, ung dung và tự
tại: Chiều ngã về tây nên ta uống rượu có nghĩa là sắp lìa bỏ đời nầy ta mau
hưởng thú vui trên đất. Thú vui trên đất mà lê Đăng Mành chủ xướng chỉ
là một tiệc rượu đơn sơ đạm bạc nhưng đó là linh hồn của sự thắm thiết và tinh
hoa của đất trời nơi nhà thơ đang sống:
Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn
tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò
chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy
mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận
vườn đào*
Mâm b àn tiếp bạn ở đây là đồng ruộng thân yêu. Rượu ở đây là phong cảnh hữu
tình và say ở đây là say hơn cả nghĩa vườn đào mà anh em Lưu Bị ngày xưa kết
ước. Một cuộc rượu như thế là cuộc rượu không phải của người phàm phu, vì rượu
ở đây là hương vị thơm tho, đẹp đẽ của đất trời trải ra trước mắt mênh mông,
cao rộng với biết bao màu sắc bày ra trước mắt những con người có tâm hồn thanh
tao đầy thẩm mỹ.
Bàn rượu và rượu là thứ đời nầy
chưa hề có ai đem ra mở tiệc nhưng cách uống của nhà thơ cũng khác lạ:
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc
chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân
dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm
lời
Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà
sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân
“Hắt một chén” có nghĩa là không phải uống vào bụng mà làm cho rượu bay
ra không gian. Đây là khẩu khí của những con người hào kiệt rưới rượu giữa đất
trời, bày tỏ khí phách hiên ngang của mình cùng sông núi.
Những chén tiếp theo nhà thơ chuyền tay cho bạn mình là những con người
dân dã, nông bần, “kiệm lời” vì mang tâm tư sâu kín. Họ chẳng khoa
trương vọng ngữ nhưng “Chân lấm tay bùn mà trí soi văn sách” Hai vế thơ nầy bày
tỏ khí phách cúa những con người nhập tiệc, sự điềm đạm tỉnh táo của lớp người
có nhân cách trước thế gian. Họ chỉ là người dân dã nhưng minh triết ở tâm hồn.
Vế tiếp theo có khẩu khí sảng
khoái nhất của bài thơ, như anh chàng nông dân lại múa kiếm nhuần nhuyển giữa
đất trời, toát ra cái hào khí ngất trời từ trong chiếc áo nâu:
Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào
kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này
Cái hào khí trong chiếc áo nâu đó nhà thơ muốn không chỉ có ở đời nầy
mà nó phải lưu truyền cho thế hệ sau. Dùng ruộng mương làm chăn chiếu, ói cái
chất văn chương minh triết của mình để bón phân cho đất, và chôn xác mình nơi
đây để hoá cỏ cho đời là lý tưởng tuyệt đối của nhà thơ. Lý tưởng đó không khó
với người nông dân bình thường nhưng rất khó với người nông dân trí thức vì
chim cánh rộng thì phải bay xa, mấy ai làm kẻ sĩ lại chôn chân mình nơi đồng
ruộng được đâu. Nhưng nếu kẻ sĩ chôn
được chân mình nơi đồng ruộng thì nó sẽ biến thành đóa sen đẹp hoàn toàn như vế
chót của bài thơ :
Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời
này…!
Cuộc đời nầy rất cần nhiều nhân vật trong thơ lê Đăng Mành vì mấy ai
chịu “giữ gìn tinh khiết khi lỡ say”, bởi vì họ chẳng say “Tiệc rượu giữa đồng”
mà say trên bàn cao ghế đẹp.
Bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” là một triết
lý sống
thanh cao lồng trong một phong cách sống thanh bần.
Ý nghĩa của bài thơ thật sâu xa lồng trong lời thơ thanh thoát.
Rất tiếc người bình không viết đạt những gì mình cảm nhận trong thơ ./.
Châu Thạch
Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gửi từ:
van tran
truongvantran @hotmail.com
TÔI VÀ HOÀNG HÔN QUÊ MÌNH