THÔI THÌ...THÌ CỨ ĐƯỜI ƯƠI,TIÊU DAO RỪNG RÚ NỤ CƯỜI NGUYÊN SƠ..!CÁM ƠN CÁC BAN ĐÃ GHÉ THĂM,ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN!

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014

ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG” THƠ LĐM Tác gỉa: Châu Thạch

          

                                    ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG”
                                                          THƠ LĐM
                                                                           Bình thơ:  Châu Thạch
Nhiều người hiểu chữ “Lãng Mạn” có nghĩa đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay bổng,
Phản ảnh một ước mơ của khát vọng vươn lên trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “ Tiệc rượu giữa đồng’ cúa lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn ngay từ cái đầu đề. Thật vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu không là ngông, là kỳ quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời. Đọc toàn bộ bài thơ ta thấy nó không ngông, không kỳ quặc mà phát hiện ở đó bày tỏ một nhân cách sống thanh bần và cao thượng: 
                
 TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!

Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này

Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*


Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

                                                       LĐM
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa

Vế đầu của bài thơ giới thiệu một tiệc rượu mở ra trên đồng ruộng trong khung cảnh buổi chiều bóng ngã vể tây. Lý do để mở tiệc là vì tác giả sợ đời là hư không nên biết đâu không còn cơ hội gặp nhau . Đọc vế thơ nầy ta biết ngay tác giả dùng bữa tiệc trên đồng ruộng hoặc hư cấu một bữa tiệc như thế để bày tỏ phong cách sống của mình trong những tháng năm vào tuổi Hạc:
   
            Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây
            Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
            Hư không có biết mai còn gặp lại
            Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này
                   
“ Chiều gần xuống kéo lưới quăng về tây” là hình ảnh sống động chỉ sự sắp ra đi ở cuối đời người. Buổi chiều của thời gian chỉ kéo ánh sáng quăng về tây nhưng buổi chiều của đời người thì kéo tất cả vào cái lưới trời lồng lộng quăng vào trong bóng tối. Vậy chữ “tây” ở đây là bên kia thế giới của sự sống hiện tại.
“ Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng nầy”: Vì “chiều” thể hiện cho cuộc đời còn lại, “tây’ thể hiện cho thế giới chết bên kia nên “ruộng” ở đây thể hiện cho đất sống hiện tại và “rượu” là niềm vui cần hưởng thụ.
Bốn câu thơ mở đầu đã thể hiện ngay một cách sống vô vi, ung dung và tự tại: Chiều ngã về tây nên ta uống rượu có nghĩa là sắp lìa bỏ đời nầy ta mau hưởng thú vui trên đất.  Thú vui trên đất mà lê Đăng Mành chủ xướng chỉ là một tiệc rượu đơn sơ đạm bạc nhưng đó là linh hồn của sự thắm thiết và tinh hoa của đất trời nơi nhà thơ đang sống:

             Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
             Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
             Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
             Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*

Mâm b àn tiếp bạn ở đây là đồng ruộng thân yêu. Rượu ở đây là phong cảnh hữu tình và say ở đây là say hơn cả nghĩa vườn đào mà anh em Lưu Bị ngày xưa kết ước. Một cuộc rượu như thế là cuộc rượu không phải của người phàm phu, vì rượu ở đây là hương vị thơm tho, đẹp đẽ của đất trời trải ra trước mắt mênh mông, cao rộng với biết bao màu sắc bày ra trước mắt những con người có tâm hồn thanh tao đầy thẩm mỹ.
 Bàn rượu và rượu là thứ đời nầy chưa hề có ai đem ra mở tiệc nhưng cách uống của nhà thơ cũng khác lạ:

            Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
            Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
            Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
            Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời

       Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
       Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
        Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
        Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân

“Hắt một chén” có nghĩa là không phải uống vào bụng mà làm cho rượu bay ra không gian. Đây là khẩu khí của những con người hào kiệt rưới rượu giữa đất trời, bày tỏ khí phách hiên ngang của mình cùng sông núi.
Những chén tiếp theo nhà thơ chuyền tay cho bạn mình là những con người dân dã, nông bần, “kiệm lời” vì mang tâm tư sâu kín. Họ chẳng khoa trương vọng ngữ nhưng “Chân lấm tay bùn mà trí soi văn sách” Hai vế thơ nầy bày tỏ khí phách cúa những con người nhập tiệc, sự điềm đạm tỉnh táo của lớp người có nhân cách trước thế gian. Họ chỉ là người dân dã nhưng minh triết ở tâm hồn.
  Vế tiếp theo có khẩu khí sảng khoái nhất của bài thơ, như anh chàng nông dân lại múa kiếm nhuần nhuyển giữa đất trời, toát ra cái hào khí ngất trời từ trong chiếc áo nâu:  

             Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
             Có ói đây cũng phân bón đất cày
             Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
             Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này

Cái hào khí trong chiếc áo nâu đó nhà thơ muốn không chỉ có ở đời nầy mà nó phải lưu truyền cho thế hệ sau. Dùng ruộng mương làm chăn chiếu, ói cái chất văn chương minh triết của mình để bón phân cho đất, và chôn xác mình nơi đây để hoá cỏ cho đời là lý tưởng tuyệt đối của nhà thơ. Lý tưởng đó không khó với người nông dân bình thường nhưng rất khó với người nông dân trí thức vì chim cánh rộng thì phải bay xa, mấy ai làm kẻ sĩ lại chôn chân mình nơi đồng ruộng được đâu. Nhưng nếu kẻ sĩ  chôn được chân mình nơi đồng ruộng thì nó sẽ biến thành đóa sen đẹp hoàn toàn như vế chót của bài thơ :

         Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
         Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
         Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
         Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…!

Cuộc đời nầy rất cần nhiều nhân vật trong thơ lê Đăng Mành vì mấy ai chịu “giữ gìn tinh khiết khi lỡ say”, bởi vì họ chẳng say “Tiệc rượu giữa đồng” mà say trên bàn cao ghế đẹp.

   Bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” là một triết lý sống
thanh cao lồng trong một phong cách sống thanh bần.
Ý nghĩa của bài thơ thật sâu xa lồng trong lời thơ thanh thoát.
Rất tiếc người bình không viết đạt những gì mình cảm nhận trong thơ ./.

                                                                                         Châu Thạch
Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gửi từ:
van tran
truongvantran@hotmail.com

                                               TÔI VÀ HOÀNG HÔN QUÊ MÌNH
 
 

TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG!

TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG! 
 
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về tây   
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy   
Hư không có biết mai còn gặp lại   
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này   
 
Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn đào*
 
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm lời
 
Chẳng khoa trương chuyện thương nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn ngân
 
Hắt chén nữa ruộng mương là chăn chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi ! thân hóa cỏ đê này
 
Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời này…! 
 
                                                        LĐM
---- 
*Nơi anh em Lưu Bị kết nghĩa 
 
 

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

BỐN MÙA AN NHIÊN – Thơ Lê Đăng Mành

Bốn mùa an nhiên – Thơ Lê Đăng Mành
BỐN MÙA AN NHIÊN !

Tay bỏng còn khêu bếp hạ tàn
Mặc lòng cứ gợn sóng miên man
Vết khâu buốt nhói thời phiêu lãng
Chực tạt vào thềm thu dợm sang

Quyên khàn xa xót tội canh thâu
Trăng rót vàng dôi cúc bạc màu
Đứt vận câu thơ trườn ngắc ngoải
Lá rơi bướm tủi liệm đời sâu

Thu chằm xa vắng xuống tang thương
Vô trú phù vân nhuốm đoạn trường
Hiu hắt đìa sen dầu ảm đạm
Vô thường nhắc nhở biết yêu thương

Dơi tìm gọi bạn tránh làn đông
Côi cút trời ơi! Thiếu ấm nồng
Chỉ có loài hoa hừng hực lửa
Trạng nguyên đỏ thắm tiếp xuân nồng

Kiến soi trời động để thiên di
Vật đổi sao dời cứ đến đi
Không- sắc phiêu bồng trong vũ trụ
Có sanh-có tử lẽ huyền vi

Thu- hạ - đông… mầm đã nhú xuân
Dẫu từng điêu đứng biết bao lần
Choàng vai cô tịch như bằng hữu
Bất chợt bên thềm hé nụ ngân !

                         Lê Đăng Mành